Thứ Tư, 8 tháng 1, 2014
Mẹ và Đà Lạt
Văn hóa - Nghệ thuật
Mẹ và Đà Lạt
Cập nhật lúc 15:21, Thứ Năm, 26/12/2013 (GMT+7)
Trong số du khách nước ngoài đến thăm Đà Lạt, có một người Pháp tóc đã chuyển màu theo gió bụi thời gian. Ông đến thành phố này mang theo ký ức đời người và nỗi nhớ xa xăm. Ông nhớ con đường rải đá, khu rừng thông xanh trên đồi Đa Thiện, dãy mimôsa vàng rập rờn ven Thung lũng Tình Yêu và nhớ cả ngôi nhà nằm cạnh góc đường có hàng hoa tím. Đó là ông Couvent, người kỹ sư điện già sống với Đà Lạt bằng tâm thức, vì vùng đất sương mù này là nơi ông cất tiếng khóc chào đời và lớn lên từ một thời xa vắng...
Công viên hoa. Ảnh: Phan Văn Em |
Người lữ hành cô đơn
Tôi gặp và quen một chú “Tây ba lô” người Pháp tên là Pierre một cách tình cờ. Khoảng 3 giờ chiều năm ngoái, anh đạp xe từ Biên Hòa lên Đà Lạt, khi leo hết đèo Bảo Lộc bị thủng lốp nên dừng lại đầu đèo nhờ vá hộ. Lúc ấy tôi đang ngồi “buôn dưa lê...” trong quán, nhìn thấy anh ta vừa nói vừa ra hiệu bằng tay với người chủ ven đường một cách tội nghiệp. Có lẽ do đạp xe cả quãng đường dài nên gương mặt của anh chuyển sang gam màu nắng cháy, giàn giụa mồ hôi kết cùng bụi đất. Chắc là anh đói và mệt nên âm sắc trở nên thều thào đến mức thảm thương. Trong thời gian chờ đợi, anh mang ra hai chiếc bánh chưng đã bắt đầu khô lá, ngồi bệt xuống đất bóc vỏ ra ăn ngon lành, sau đó mở chai nước Lavie đổ ồng ộc vào miệng, rồi ngồi bó gối nhìn ra đường một cách vô hồn như con khỉ già đang ốm. Đến khi trả tiền, người vá xe đòi 20 ngàn, cao gấp 2 lần dân địa phương nên Pierre không đồng ý. Anh tỏ thái độ vùng vằng, buông một tràng dài tiếng Anh giọng Pháp. Người vá xe đầu đèo đứng dậy giải thích tiếng Việt, nhưng không ai hiểu ai. Cuối cùng tôi phải đứng ra làm người hòa giải. Pierre há mồm nhìn tôi, khi phát hiện ở vùng sơn nguyên heo hút này lại có người nói được tiếng Pháp, vì đã khá lâu rồi ở Việt Nam, tiếng Anh gần như là ngôn ngữ chính trong việc giao tiếp quốc tế thường ngày. Đối với người Pháp, họ thường tỏ ra lịch lãm hào hoa khi gặp được người mình trân trọng. Nên sau chuyện đầu đèo, Pierre lịch sự mời tôi về Bảo Lộc ăn tối, uống cà phê như một sự trả ơn và luôn tiện nhờ tôi định hướng để tìm một ngôi nhà nằm ở góc đường Đà Lạt.
Pierre 26 tuổi, cao khoảng 1.75m, mắt đen như dân châu Á. Anh có thân hình cao gầy, gương mặt xương xương hiện rõ sự thông minh và tính tự lập của một thanh niên Pháp tiêu biểu. Pierre cho biết, anh vừa tốt nghiệp thạc sĩ ngành Xã hội học tại Nhật, ngoài tiếng Pháp là ngôn ngữ mẹ đẻ anh còn sử dụng thông thạo hai ngôn ngữ khác là Anh và Nhật, đang trên lộ trình từ Singapore, Mã Lai, Thái Lan, Campuchia rồi sẽ dừng chân 3 ngày tại Đà Lạt bằng xe đạp. Nghe anh kể cuộc viễn hành kết hợp với gương mặt phủ đầy nắng gió tôi tin là anh nói thật. Cách đây vài tiếng đồng hồ, Pierre ngơ ngác nhìn khi nghe tôi nói bằng tiếng mẹ đẻ của anh và bây giờ tôi lại tròn xoe mắt, được biết Đà Lạt là quê hương của một người Pháp.
Trong đời thường, bất ngờ luôn vẫn là sự kiện mới, gây ra cảm giác ngạc nhiên thú vị. Pierre mở Ipad hiện lên 10 tấm ảnh Đà Lạt xưa, được chụp vào khoảng trên dưới 60 năm. Nhìn những tấm ảnh trắng đen sắc cạnh hơn nửa thế kỷ trước tôi không khỏi ngậm ngùi. Đà Lạt ngày ấy đầy hoa dại, đầy thông với những căn nhà tranh lèo tèo như tấm thảm thực vật chạy dài xa tít và thông qua hình tư liệu này, tôi lại nhận ra Đà Lạt 70 năm trước không giống khu thị tứ mà dường như là những đồi cỏ dợn sóng, trong đó cây thông là loại cỏ khổng lồ đứng chơ vơ, có nơi thành rừng lồng lộng dưới trời xanh mây trắng. Pierre chỉ một biệt thự nhỏ mang kiến trúc Normandie nằm cạnh góc đường nói với tôi đây là căn nhà của ông bà nội mà anh ngỏ ý nhờ tôi tìm hộ. Tôi không phải là dân gốc Đà Lạt, nhưng với nghề phiên dịch, tôi đến thành phố này hàng trăm lần, đã từng lang thang một mình trên những con đường bậc thang cao thấp, nhưng không thể xác định được vị trí ngôi nhà trên màn hình Ipad. Pierre không trách tôi về trí nhớ, sáu bảy mươi năm còn gì, bụi thời gian rồi những cuộc chiến tranh vệ quốc liên tiếp từ các thời Pháp - Nhật - Mỹ, cộng với sự phát triển cơ học của con người nên khó có thể giữ được hình ảnh xưa từ một thời xa vắng. Anh có vẻ đăm chiêu phảng phất nỗi buồn, ngả người trên ghế đưa mắt nhìn về đỉnh Sa Pung trên dãy núi Đại Bình mờ ảo trong chiều hoàng hôn tím rịm.
Vốn từ tiếng Pháp của tôi không nhiều. Vì vậy tôi xin chuyển sang tiếng Anh, với hy vọng có thể kể cho Pierre câu chuyện mang hoài niệm đời người của một Việt kiều xa xứ. Đó là chuyện tìm nhà của ông Lê Văn Hộ, giáo sư sử học tại Vương quốc Anh vào thập niên 60-70 của thế kỷ trước. Ông Hộ là người Hà Nội gốc, sau gần 40 năm sống ở nước ngoài trở về tìm lại ngôi nhà xưa của ông bà nội. Trên đường về nước, ông không thể tưởng tượng di sản của dòng tộc còn hay đã mất. Nếu còn là kỷ niệm đời người, ông có cơ may nhìn lại dấu tích nơi ông đã sinh ra và lớn lên từ thời thơ ấu, mà nếu mất đi cũng là điều đáng mừng, vì đất nước nào cũng phải thay áo mới cho vừa vặn với tầm vóc phát triển của mình. Nhưng cuối cùng điều mong đợi đã mỉm cười với ông, có nghĩa là ngôi nhà xưa vẫn còn nguyên vẹn, tuy đã nhiều lần đổi chủ. Ông Hộ xin phép người chủ mới vào ôm cây cột gỗ trong nỗi ngậm ngùi. Kể từ lúc lên tàu vào Nam sau Hiệp định Genève bốn mươi năm rồi còn gì. Hình ảnh một thời xa ngái hiện về, con đường xưa với cây sấu già đầu ngõ rợp lá vàng bay, nay vẫn còn đứng đó tuy lớp vỏ trở nên sần sùi vì trải qua nhiều mùa mưa nắng. Nhưng ông lại cảm thấy buồn vì đã bao năm quê mình vẫn thế! Sau ngày Nhà nước đổi mới ông Hộ có về lại. Lần này nước mắt ông chảy ra, không phải vì mất đi kỷ niệm, mà khóc vì sự vui mừng. Ngôi nhà xuống cấp ngày xưa gần như đang từng ngày chuyển sang hoang phế đã trở thành phố xá cao tầng sầm uất, nhộn nhịp người xe. Việc ấy cũng cho thấy rằng, nước mắt đời người chưa hẳn là một nỗi đau, có khi vui mừng vì sự thành công hoặc trước sự phát triển mang tầm vóc quốc gia ngay tại quê mình người ta cũng khóc. Pierre yên lặng, vòng hai tay trên ngực hau háu theo dõi tình tiết câu chuyện rồi thở dài có vẻ trầm ngâm về cuộc viễn hành trở về Đà Lạt của anh. Tôi biết một thạc sĩ ngành Xã hội học, tốt nghiệp tại một quốc gia biết khai thác và sử dụng túi khôn thế giới kết hợp với lòng tự trọng của mình không phải tầm thường. Người Nhật đã làm nên những việc phi thường mà dân châu Á chưa ai nghĩ đến. Năm 1870 Nhật đã khép lại lịch Nippon để chuyển sang lịch Tây theo ngày Chúa Jesus Christ ra đời để hội nhập với cộng đồng thế giới. Năm 1945, sau khi đại bại trong chiến tranh, đến mức đầu hàng quân đồng minh vô điều kiện. Vì lòng tự trọng họ đã chủ động mở cửa giao thương, đưa đất nước trở thành một cường quốc từ sự hoang tàn đổ nát. Họ đã nhờ các nhà làm luật nổi tiếng của Đức cùng tham gia sửa đổi hiến pháp cho mình. Họ đã giữ nguyên hiện trạng cố đô Kyoto của vương triều để làm hình ảnh sống, minh chứng cho những trang cổ sử huy hoàng. Vào năm 1868 dưới thời vua Minh Trị (Meiji) mở “Hội nghị Diên Hồng” lấy ý kiến nhân dân xây dựng thủ đô ở vùng đất mới mang tên Tokyo như là sự kế thừa hồn thiêng sông núi. Ở cạnh đất nước mặt trời mọc này, hoàng đế Jumong, xứ sở Cao Ly sau khi quét sạch nhà Hán ra khỏi bờ cõi vào năm 178 trước Công nguyên đã chọn quốc kỳ mang hình tượng con chim ba chân Phụng Hoàng Lửa để chứng tỏ sức mạnh độc lập tự cường của một quốc gia. Hào khí ấy còn kéo dài ở Hàn Quốc đến tận bây giờ. Tất cả sự thành công của hai quốc gia biển đảo này đều dựa vào nền tảng văn hiến. Ở đó người lãnh đạo phải có đủ tâm và đủ tầm biết dựa vào dân, giữ gìn truyền thống dân tộc, vì còn dân còn nội lực là còn đất nước. Đà Lạt nơi ông sắp đến là thành phố đang chuyển mình. Chính quyền địa phương cũng đã ít nhất ba lần lấy ý kiến nhân dân, các nhà khoa học, các giáo sư tiến sĩ, đồng thời thuê công ty Interscène của Pháp tham gia xây dựng một thành phố du lịch nghỉ dưỡng hiện đại, đậm đà bản sắc cao nguyên. Trong tương lai sẽ được mở rộng lên 3.300km2 với dân số trên dưới 1 triệu người, theo tiêu chí bảo tồn là thành phố trong rừng - rừng trong thành phố. Quê của bà nội anh ngày xưa vào cuối thế kỷ thứ XIX, đầu thế kỷ thứ XX được người Pháp phát hiện, các kiến trúc sư Pháp thiết kế, và bây giờ cũng được người Pháp tham gia, xem như là duyên nợ của hai dân tộc, duyên nợ của mối tình Việt-Pháp giữa ông bà nội của anh...
Là một nhà xã hội học trẻ, sau khi nghe qua câu chuyện, hình như Pierre không còn giữ ý định tìm ngôi nhà của ông bà nội ở Đà Lạt nữa. Có lẽ anh nhận ra mình mang tâm thức của ông Lê Văn Hộ, có nghĩa là khi tìm được hoặc không tìm được ngôi nhà, nước mắt người ta vẫn chứa đựng sự tiếc nuối lẫn cả thăng hoa, vì suy cho cùng trong cõi người ta, người và đất tuy hai nhưng là một. Đôi mắt của Pierre bất ngờ sáng lên, anh chuyển sang đề tài về con đường dẫn đến Vallée d’Amour (Thung lũng Tình Yêu). Anh chỉ tay vào màn hình cho tôi xem thung lũng ngày ấy rồi giải thích đây là nơi ông bà nội gặp nhau rồi trở thành vợ chồng sau khi quân đội Nhật chiếm đóng Đà Lạt mấy mươi ngày vào tháng 3 năm 1945.
Vallée d’Amour (Thung lũng Tình Yêu) ngày trở lại
Sau đêm chia tay tại thành phố Bảo Lộc, tôi không gặp lại Pierre nữa, cũng không biết anh đã về Nhật hay về Pháp, nhưng tôi chắc một điều anh đã thông tin cho bố mẹ về những sự thay đổi tại quê hương bà nội của mình. Cách đây một tuần Pierre điện thoại cho tôi bằng tiếng Việt. Qua cuộc điện đàm, anh nói tiếng Việt chưa đúng âm điệu và ngữ pháp, nhưng tôi biết anh muốn nói gì. Đến khi kết thúc, Pierre vui vẻ theo kiểu Á Đông: “Cho tôi gởi lời thăm con vợ của ông!”. Thật tình lúc ấy tôi hơi bị sốc, vì anh ta chưa bao giờ gặp mặt vợ tôi. Đối với người Việt như thế là trịch thượng. Tuy nhiên, nhiều năm làm việc với người nước ngoài, tôi phát hiện trong số họ đa số là người tốt, nhưng vì chưa đủ từ hoặc không hiểu từ nên thường bị lỗi. Ví dụ như cụm từ vợ con và con vợ đối với người Việt hoàn toàn khác nhau nhưng họ nghĩ là một. Có lần tôi giải thích câu “Nhất tự vi sư, bán tự vi sư” họ trố mắt nhìn. Vì đối với họ thầy cô giáo dạy mình chính phủ trả lương hoặc mình đóng tiền học phí sao lại vi sư!
Lần này Pierre đi xe taxi cùng với bố là ông Couvent xuống tận nhà mời vợ chồng tôi đi Bảo Lộc ăn sáng một cách trân trọng. Ông Couvent mang dáng người Việt đến 60% nhưng ông không nói được tiếng Việt và cũng không biết tiếng Anh, vì vậy chuyện trò với nhau bằng tiếng Pháp trở thành ngôn ngữ bắt buộc. Ông Couvent là kỹ sư điện, sinh năm 1947 tại Đà Lạt, mẹ là nữ hộ sinh người Việt, bố là bác sĩ dân y người Pháp. Hai ông bà gặp nhau trong lúc quân đội Nhật tiếp quản Đà Lạt tháng 3 năm 1945, đã bắt và giam lỏng 600 viên chức và kiều dân Pháp tại hai cư xá Decoux và Bellevue ở trung tâm Đà Lạt. Sau lần gặp duyên nợ ấy, hai ông bà thường dẫn nhau ra Thung lũng Tình Yêu, kết quả là bố của Pierre ra đời. Ông Couvent đã về Đà Lạt một lần vào năm 1992 theo ước nguyện của mẹ trước lúc lâm chung, nhưng có lẽ không tìm được chứng tích gì nên ông buồn bã về Pháp thắp nén hương thì thầm bên mộ mẹ thay cho lời tạ tội. Bây giờ cả bố lẫn mẹ ông đã về với đất. Đối với người mẹ Việt, trước giờ phút từ giã cuối đời tại Pháp, bà nhìn con trai thều thào muốn nhìn thấy tấm ảnh Đà Lạt lần cuối, ông Couvent tất tả chạy vào thư viện gia đình mang tấm hình hai ông bà đứng ở Thung lũng Tình Yêu bên cạnh chùm hoa mimosa rủ xuống, nhưng đã quá muộn. Bà trút hơi thở cuối cùng mang theo tâm thức Đà Lạt xuống mồ trong tưởng tượng. Lúc ấy, ông Couvent òa lên khóc tự hứa với mình bằng mọi giá phải về Việt Nam chụp lại tấm hình Thung lũng Tình Yêu mới nhất đem về khắc vào bia mộ, để mẹ và Đà Lạt mãi mãi bên nhau, nhưng đã bao năm rồi vẫn đang bỏ ngỏ. Vì thế, ông giao cho Pierre từ Nhật về Việt Nam tiếp tục thực hiện ước vọng dang dở của mình.
Tại B’Lao, tôi dẫn hai cha con Pierre đi dạo quanh hồ Bảo Lộc, nhưng dường như trong tâm thức ông chỉ có hình ảnh hồ Xuân Hương, nơi một thời nằm trong ký ức của mình. Ông chép miệng: “Ngày xưa, bố tôi thỉnh thoảng thuê xe ngựa chở cả nhà đi vòng hồ theo con đường sỏi nhỏ. Tôi còn nhớ, đêm về lạnh buốt có vài người phụ nữ đầu đội nón lá, choàng tấm ni lông trắng ngồi bán sữa đậu nành bằng đôi quang gánh, chông chênh ngọn đèn dầu leo lét. Ở trên bờ hồ là thông, cao hơn là Khách sạn Palace 30 phòng do người Pháp thiết kế năm 1920. Bố tôi cũng nhiều lần dẫn hai mẹ con tôi sang đấy gặp gỡ bạn đồng nghiệp của ông từ Pnompenh hoặc Vientiane về. Vào thời ấy Palace là trung tâm nghỉ dưỡng của cả Đông Dương. Có thể nói Đà Lạt được thiên nhiên ưu đãi, là vùng đất mang khí hậu ôn đới duy nhất ở Đông Nam Á, đã một thời được mệnh danh là Petite Paris giống như Little Sài Gòn ở Mỹ bây giờ”.
Sáng ngày hôm sau, ông Couvent chân tình mời vợ chồng tôi đi Đà Lạt để nhờ xác định ngôi nhà xưa và đến thăm Thung lũng Tình Yêu theo lời trăn trối cuối cùng của mẹ. Hình như Đà Lạt hôm ấy không phụ lòng người con viễn xứ nên bầu trời rất đẹp, mây trắng bay bồng bềnh, ẩn hiện trên mặt hồ Xuân Hương. Con đường Phù Đổng Thiên Vương nở đầy hoa dại gió thổi rập rờn. Ngôi biệt thự mang kiến trúc Normandie nằm ở góc đường ngày xưa hoàn toàn không còn dấu vết, chỉ còn lại Vallée d’Amour ngập tràn gió lộng. Pierre mở Ipad xác định vị trí chụp ảnh của ông bà nội cũng vô vọng. Thung lũng Tình Yêu ngày nay nối liền với hồ Đa Thiện, phía trên là đồi thông xanh. Bước qua cổng chính khoảng 50m về phía tay trái là hoa viên Tiểu Sơn Lâm, nơi ấy có một “Cây đa Tình yêu” với hàng trăm dải lụa đỏ - hồng được du khách treo lên. Cây Tình yêu ở Đà Lạt không biết có tên gọi này từ bao giờ. Theo những người quản lý tại đây cho biết, thực ra đây là một cây đa Champagne được trồng từ lâu trong khu du lịch. Tuy nhiên, không phải chỉ ở Đà Lạt mới có phong cách hai người yêu nhau viết lời nguyện ước treo lên mong muốn những điều tốt đẹp mà hình thức này đã xuất hiện ở nhiều nơi trên thế giới.
Nhà xã hội học Pierre nhìn tấm bản đồ quy hoạch Đà Lạt nói với tôi bằng tiếng Anh “Đối với nhiều nước trên thế giới nơi tôi đã từng đến, chiến lược kinh doanh về khu công nghệ cao hoặc nghỉ dưỡng ở tầm quốc gia hay quốc tế, họ đều chú trọng giữa xây dựng bảo tồn phong cảnh và vốn đầu tư. Có nghĩa là khi đặt viên đá đầu tiên, họ tiến hành ngay việc tiếp thị khách hàng và kế hoạch nhân sự dài hơi. Vì theo họ, khách hàng là người trả lương và mang lại doanh thu cho mình, khách hàng bỏ tiền ra không phải để mua hàng kém chất lượng. Và để có được đội ngũ quản lý giỏi cũng phải chuẩn bị từ bây giờ, đến lúc hoàn thành những con người ấy có đủ kỹ năng và kiến thức bắt tay vào việc một cách tự tin. Về khu du lịch sinh thái này, trước khi đến Đà Lạt, tôi đã ghé thăm thiên đường Bokor ở Campuchia. Thiên đường này tọa lạc trên đỉnh núi cao 1.080m với diện tích khá lớn. Sau một thời gian dài bị bỏ quên, mới đây được khôi phục dành cho nghỉ dưỡng, ở đó cũng xuất hiện khá nhiều cây tình yêu. Nếu như ở Việt Nam, các đôi tình nhân tung tấm lụa hồng lên cây ghi lời nguyện ước thì ở Nga, Ý, Đức, Pháp, họ chỉ ghi tên hai người lên ổ khóa, sau đó treo lên cây hoặc móc trên cầu rồi ném chìa khóa xuống sông. Họ tin rằng bằng cách này, không có người thứ ba nào có thể mở cửa trái tim người mình yêu được nữa. Hiện nay việc thể hiện tình yêu bằng ổ khóa dường như đang trở thành mốt ở nhiều nơi trên thế giới. Như vậy, ngay tại Vallée d’Amour này văn hóa của những cuộc tình đã không còn bó gọn trong một quốc gia mà đã trở thành không biên giới, cụ thể là ông bà của tôi”. Pierre ngửa mặt lên trời cười sằng sặc. Lâu lắm mới thấy anh cười và vui như thế. Bất ngờ Pierre quay sang hỏi bố bằng tiếng mẹ đẻ: “Có khi nào bố con mình tìm thấy ổ khóa tình yêu mang tên ông bà nội!”. Ông Couvent nhìn con trai mỉm cười, nụ cười sung mãn đầy trải nghiệm của một người có tuổi.
Trên đường đi bộ ven hồ Xuân Hương, tôi tâm sự với ông Couvent bằng tiếng Anh, nhờ con trai ông phiên dịch. “Tôi mừng lần trở lại này hai cha con ông vui. Người Việt thường nói: Cáo chết ba năm quay đầu về núi. Ông đã trở về quê mẹ với hình ảnh một Đà Lạt khác xưa, toàn thành phố không có tín hiệu đèn giao thông xanh đỏ đã chứng minh nét văn hóa và sự thân thiện của vùng đất cao nguyên. Chính quyền địa phương đang chuẩn bị lễ hội chào mừng 120 năm Đà Lạt hình thành và phát triển cùng lúc với kỷ niệm 40 năm quan hệ Việt-Pháp. Cách đây hơn một tháng, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã hội đàm với Thủ tướng Cộng hòa Pháp Jean Marc Ayrault tại Paris, hai bên ký kết văn kiện đối tác toàn diện và xây dựng lòng tin chiến lược. Người Việt bao đời nay vẫn trân trọng những người Pháp mang tâm thức nhân văn. Ngay tại thành phố này, chính quyền Đà Lạt đã dựng tượng đài bác sĩ Yersin, có trường đại học và con đường rộng mang tên ông như là một sự ái mộ và biết ơn. Hiện nay, kiến trúc và văn minh Pháp cũng đã chắp cánh thêm cho vùng đất này. Đà Lạt chúng ta sẽ tươi đẹp trường tồn như chuyện tình Việt Pháp của các cụ ngày xưa. Tôi tin hương hồn cụ bà sẽ rất vui khi nhìn thấy con cháu mình trở về quê mẹ và có đủ hình ảnh để tạc lên mộ như niềm mong ước của cụ bà trước lúc ra đi”. Ông Couvent có vẻ xúc động, siết chặt tay tôi như hai người bạn thân đã từng có những lúc vui buồn.
Chia tay hai cha con Pierre trong niềm vui mong ngày trở lại. Tôi hình tượng Đà Lạt vào những năm sau, với khu công nghệ cao, những ngôi trường đại học theo tiêu chí ASEAN, những cơ sở nghỉ dưỡng mọc lên ẩn hiện trên đồi thông xanh lộng gió, và hàng ngày tại Sân bay Liên Khương rộn ràng những chuyến bay lên xuống. Không biết lúc ấy ông Couvent có còn sống để trở về quê mẹ. Hình ảnh một người đàn ông nước mắt đầm đìa tất tả chạy đi tìm tấm hình Đà Lạt cho mẹ nhìn trước phút lâm chung rồi đứng lại sững sờ òa lên khóc cứ ám ảnh trong tâm thức tôi. Đối với ông Couvent, Mẹ và Đà Lạt là một. Đã có hai lần ông choàng vai tôi thì thầm “Đà Lạt là quê hương của chúng tôi. Nếu ngày nào còn đi lại được thế nào tôi cũng cố gắng tìm về. Vì ngay tại đây mẹ tôi, một người Việt Nam tuyệt vời đã sinh ra tôi và nuôi dạy tôi lớn lên. Đà Lạt đã sống trong tâm thức tôi từ ngày ấy đến tận bây giờ”.
Truyện ký: TRẦN ĐẠI
,
Đăng lên Facebook Đưa bài viết lên linkhay Đưa bài viết lên Google Bookmarks Đăng lên Twitter
,
.
CÁC TIN KHÁC
"Duyên nợ Đà Lạt"(25/12/2013)
NS Đình Nghĩ: yêu như là sống(25/12/2013)
Anh Phẩm và con ngựa thồ(18/12/2013)
Từ những vòng tròn của nước(18/12/2013)
,
- Hội chợ Thương mại Quốc tế Festival Hoa Đà Lạt 201306/01/2014
- Thông báo tạm ngưng cung cấp điện12/12/2013
- Thông báo thi tuyển viên chức12/11/2013
- Thông báo tìm người thân24/10/2013
- Thông báo tuyển dụng viên chức17/10/2013
- Thông báo về việc: Ngừng, giảm mức cung cấp điện11/10/2013
- Tour "Sắc thu Hà Nội" khuyến mãi đặc biệt10/10/2013
- Trung tâm Điều dưỡng - Phục hồi chức năng bệnh nghề nghiệp Đà Lạt - Thông báo mời chào hàng30/09/2013
- Thông báo: Phát động cuộc thi viết tìm hiểu về Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ (7/5/1954 – 7/5/2014)29/09/2013
- Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Lâm Đồng tuyển dụng đợt 2 năm 2013 với số lượng là 09 (06 Nam, 03 Nữ) biên chế làm nghiệp vụ kiểm sát ở Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện12/09/2013
Đôi chân trần
Cập nhật lúc 17:01, Thứ Tư, 08/01/2014 (GMT+7)
“Một mình lang thang trên đất này. Theo bước chân cha ông từng ngày. Một mình qua sông qua núi đồi. Tìm mặt trời và tìm lời ru ngàn đời…”
(Lời bài hát “Đi tìm lời ru mặt trời” của Y Phôn K’So).
1. Ở Tây Nguyên có ba đỉnh núi cao ngất, sừng sững, choãi chân vững chãi ở ba góc trời: Ngok Linh phía bắc, Cư Yang Sin phía tây và Bi Đúp phía nam. Ba đỉnh núi như những nóc nhà chở che miền cao phía tây tổ quốc. Những đỉnh núi ngàn năm mây phủ ấy, vừa xa lạ, thách thức lại vừa gần gũi, thân thuộc. Xa, vì không dễ mấy ai có thể đặt chân tới đỉnh. Gần gũi và thân thuộc vì người Tây Nguyên từ khi đôi mắt biết nhìn ngước lên đã trông thấy những đỉnh núi thiêng vời vợi trước mặt. Giống như người đồng bằng đi xa nhớ da diết cánh đồng, người cao nguyên rời buôn làng là hồn lại ngóng về với núi. Cũng như người miệt biển luôn khát khao chinh phục đại dương, người miền rừng cũng nuôi trong mình ngọn lửa khao khát một lần bước chân tới cổng trời. Con cháu của tù trưởng Đam San huyền thoại từ lúc rời bầu vú mẹ đã ao ước một lần đặt bàn chân trần lên những đỉnh núi hoang sơ, hùng vĩ ấy và cất tiếng hú dài lan tỏa thanh âm ra suốt những triền thung lũng tít tắp xa mờ…
Trong hỗn mang huyền tích, trong triết lý sơ khai, những tộc người trên núi đỏ rừng xanh không hiểu rõ lắm là vũ trụ được sinh thành từ đâu, nhưng có hai trong những yếu tố cấu thành nên vật chất trong ý niệm của họ là Nước và Lửa. Thần linh là những gì gần gũi. Những vật thiêng luôn hiện hữu trên mỗi bước chân. Đất thiêng, rừng thiêng, núi thiêng, sông thiêng, suối thiêng, cây cổ thụ thiêng, hòn đá lớn cũng thiêng. Yàng có mặt nơi nơi. Nhưng, Nước và Lửa là những yếu tố vật chất thiêng liêng mà gần gũi nhất. Bỡi lẽ vậy, các tộc người Tây Nguyên đã tôn vinh hai vị “hoàng đế” của họ - vua Nước và vua Lửa, tức Thủy Xá và Hỏa Xá. Những vị vua không ngai vàng, không lãnh thổ, không bá quan văn võ nhưng là biểu tượng tinh thần, là hình ảnh sống động trong tâm thức thần dân sống giữa rừng già. Nước và Lửa đã hun đúc ý chí, luyện rèn sức mạnh và bồi đắp tâm hồn. Đôi chân trần từ lúc sinh thành đã được ngâm trong dòng nước mát sông Mẹ và sưởi ấm từ ngọn lửa rừng Cha. Nước và Lửa đã trui rèn thân xác cho những người con Tây Nguyên, những con người chỉ có đôi chân trần bám trên mặt đất. Những đôi chân trần cồng kềnh, vạm vỡ. Những đôi chân trần mạnh như hổ, nhanh như báo, dẻo như trăn. Những bước chân sải lên từng thớ đất cao nguyên phóng khoáng và ngang tàng như được nâng bổng bằng đôi cánh của các loài chim núi…
Cao nguyên huyền thoại. Ảnh: BN |
2. Theo tinh thần bất khuất của tù trưởng Đam San từng lên tận cửa nhà trời bắt nữ thần Mặt Trời về làm vợ, những dũng sĩ Tây Nguyên chân trần từng tập hợp sức mạnh thống nhất các bộ tộc. Đáp lời Bok Hồ, noi gương anh hùng Núp, những người con trai con gái Tây Nguyên đầu đội trời, chân đạp đất đã vót chông, gùi đạn, cưỡi voi rùng rùng vượt Trường Sơn ra trận trong sự nghiệp giải phóng quê hương. Những người thợ săn voi Tây Nguyên cũng chỉ đôi chân trần vượt rừng sâu núi cao chinh phục khắp mọi nẻo đại ngàn. Chân trần lên rẫy, lên nương tỉa bắp, trồng cà phê, gieo hạt lúa. Chân trần lội sông bắt cá, vào rừng lấy mật. Chân trần quấn quyện trong vòng xoang, trong ánh lửa, trong nhịp cồng chiêng đắm say, huyễn hoặc. Vồng ngực căng buông thả tự nhiên, vòng lưng uốn khố, chân trần tràn căng sức sống giữa vũ trụ phồn sinh…
Người Tây Nguyên không sợ hãi núi cao, rừng thẳm. Những dòng sông hùng vĩ, những thác cao hung hãn không làm họ chùn bước. Dã thú sơn lâm cũng trở thành bạn bè. Không có gì, chỉ có đôi chân trần và tâm hồn phóng khoáng, chỉ có sức mạnh ẩn tàng và những tích tụ văn hóa ngàn đời mà họ an nhiên, tự tại, hòa hợp cùng thiên nhiên hoang dã. Núi đã nuôi, rừng đã dưỡng, những người con đại ngàn cứ thế lớn lên. Sức mạnh của họ được hấp thụ từ mạch nguồn thiên nhiên bất tận. Thức ăn của người Tây Nguyên nào có gì cao lương mĩ vị? Miếng ngon xứ rừng chỉ là biăp pờrùng (rau), kơnàp (con mối cánh), gòl (đọt mây), kasràt (cá muối chua) hay blơn prièn (quả cà đắng) nấu với con cá suối. Chỉ miếng sáp mật ong và ngụm nước chiết từ rễ cây mà vượt qua vài đỉnh núi bước chân không mỏi, tiếng hú vang xa tới ba buôn, bốn rừng…
Chỉ vậy thôi, mà họ từng sống trên đất này từ cái thuở khỉ đánh đu trêu người, voi đi lững thững bình yên, hổ báo lang thang bìa rừng. Những bắp chân trần của những người đàn ông đóng khố vác xà gạc, những người đàn bà lúi húi mang gùi. Họ cứ đi trên những con đường rừng mòn lối, băng qua những dãy núi điệp trùng. Người Bana, người Jarai vấn khố lội qua đầu nguồn sông Ba hùng vĩ. Người Êđê, người Mơnông ngập thân trong dòng K’Rông Ana, K’Rông Anô nghĩa tình rồi xuôi về thảo nguyên Madrăk. Người Châu Mạ, người Kơho ngược dòng Đạ Dâng và thung thăng giữa cao nguyên Lang Bian bát ngát dã quỳ vàng. Người Churu theo những lối mòn xuyên giữa rừng già tìm hướng về phía biển.
Những bước chân trần. Họ mang theo tâm hồn mình những giấc mơ phiêu bồng, những huyền thoại bất tận về một miền cao nguyên bí ẩn, mênh mang...
3. Ngày buôn làng mở hội. Những bắp chân trần quấn quyện vào nhau, quấn quyện vào ánh lửa, dưới bóng thần linh nguyện cầu cho mùa màng tốt tươi. Ngày gái trai trao vòng cầu hôn, hai cặp chân trần quỳ bên nhau hẹn thề trăm năm cầm sắt trước thần Sông, thần Núi. Người mẹ ôm con trẻ sơ sinh nhúng đôi chân măng tơ vào dòng suối ven rừng trong ngày lễ đặt tên Nhu S’đăn cũng mong cho con lớn lên chân cứng đá mềm. Ngày Pơthi đưa hồn người đồng tộc về với cõi Yàng, những đôi chân trần lại quỳ bên nhau khóc tiễn. Người nằm xuống, rũ bỏ tất cả những mùa nhớ, tháng quên, chỉ mang theo đôi chân trần về miền xa thẳm…
Như Y Moan nằm đó. Người nghệ sĩ của đại ngàn mà ngọn lửa đam mê như bốc cháy cả cao nguyên không tắt nhưng thân xác của anh đã yên nghỉ dưới lòng đất bazan. Anh trả lại cho đời tất cả. Gửi lại giọng hát, gửi lại những vinh quang. Anh lặng lẽ nhón bước chân trần về với cõi Yàng, nơi đầu nguồn K’Rông Ana, nơi giao dòng K’Rông Ano. Trước ngôi mộ Y Moan, tôi lặng lẽ nghiêng mình và như thấy đó đôi chân trần của anh thả lỏng lơi trên đất. Đôi chân ấy từng thoăn thoắt bám theo thân khố của cha lên rừng săn thú. Đôi chân ấy từng chìu níu theo tà váy mẹ lên rẫy hái quả. Chân khỏa nước dịu dàng cùng người con gái ngực trần lội xuống bến tắm. Chân nhịp theo tiếng hót chim Phí, chim Tia Chôm. Và tiếng hát, tiếng hát thì vang vọng, thẳm sâu, ma lực, huyễn hoặc. Nhưng bây giờ thì Y Moan nằm đó. Đôi chân trần của anh vĩnh viễn dừng bước. Người đàn ông Ê Đê sống một cuộc đời đam mê đã ngủ yên dưới lớp đất bazan. Tôi lặng lẽ bái vọng hương hồn Y Moan và nhẩm theo tiếng hát mà anh từng da diết cất lên qua giai điệu của người nhạc sĩ đồng tộc Y Phôn K’So: Ôi, ngày tháng, đôi vai gầy/ run run tựa vào hàng cây/ Ôi thời gian, hãy quên đi/ đôi chân cồng kềnh/ cha đi giữa rừng hoang vu/ Lưng cha thì đội nắng gầy/ ôi tóc bạc tựa trăng soi/cả cuộc đời và cả một đời/đôi chân trần…
Nghẹn ngào. Da diết. Hoang hoải. Phiêu linh…Tiếng hát Y Moan cất lên. Những giai điệu dân ca Ay ray, Kơ ứt, Lả lông, Jalyau cất lên. Tôi như được tắm mình trong không gian đẫm ánh trăng xanh rừng cao nguyên. Như được nô giỡn cùng đàn thú hoang giữa thảo nguyên ngập tràn nắng gió. Như được khỏa lên gương mặt nhuốm bụi đất của mình những tia nước mát lạnh của dòng suối trong giữa hoang vu đại ngàn và ngả mình xuống bãi cỏ dịu êm. Xung quanh tôi là những bắp chân trần, những bước chân trần trong vòng xoang rực cháy. Ở ngoài kia cao nguyên trùng trùng những trận gió hoang dại. Ai đó ngậm đọt lúa làm khèn Đinh Puốt. Tiếng lục lạc trâu gõ đều trong đêm. Tiếng đàn tre đẩy nước ngoài bến sông kẽo kẹt. Tiếng chim gọi bầy khắc khoải bay về núi xa. Tiếng con nai, con hươu tìm nhau tha thiết.
* * *
Bây giờ đang là tháng giêng. Mùa này Tây Nguyên, hoa dã quỳ vẫn tràn nắng vàng khắp núi đồi, thung lũng. Mùa lễ hội, mùa nhớ, mùa quên, mùa xoang, mùa hát. Mùa lãng du nồng nàn. Mùa da diết buồn vui trong lành. Trong những đôi mắt màu nâu như ánh lên giấc mơ về những thuở ngày xưa, thưở những bước chân trần đầu tiên cha ông khai mở đất cao nguyên. Cho hôm nay, những lớp lớp chân trần quấn quyện bên nhau như nhiều cây thành rừng, trùng điệp rừng, thăm thẳm rừng thành đại ngàn hùng vĩ...
Tùy bút: UÔNG THÁI BIỂU
,
,
6 điều cần biết khi tiêm vắcxin HPV
HPV (virút u nhú ở người) là căn bệnh lây lan qua đường tình dục rất phổ biến và nguy hiểm nhất là ở nhóm người trẻ tuổi có cuộc sống tình dục sôi động. Việc phòng ngừa, đặc biệt là tiêm phòng còn hạn chế nên tỷ lệ rủi ro mắc bệnh rất cao.
Liên quan đến căn bệnh này, Trung tâm Kiểm soát & Phòng chống dịch bệnh Mỹ (CDC) vừa giới thiệu 6 điều cần biết và 6 điều cần làm liên quan đến tiêm phòng vắcxin HPV cho nhóm tuổi vị thành niên.
Ảnh minh họa
Ảnh minh họa
6 điều cần biết về HPV
• Mọi phụ nữ đều có thể bị ung thư cổ tử cung, buộc phải điều trị, phẫu thuật cũng như phải làm các thủ thuật chữa trị, vừa tốn kém thời gian lại hao tổn tiền bạc. Thậm chí nếu nặng có thể phải cắt bỏ hoàn toàn cổ tử cung, tử cung và buồng trứng, mất khả năng làm mẹ và nhiều hệ lụy khác. Nhiều bệnh nhân phải xạ trị và hóa trị liệu, và tệ hơn, dẫn đến tử vong do phát hiện muộn, các phương pháp điều trị không phát huy tác dụng.
• Phụ nữ có thể mắc ung thư âm đạo, cần phải phẫu thuật, thậm chí còn ảnh hưởng vĩnh viễn đến cuộc sống tình dục.
• Khi mắc bệnh, phụ nữ có thể phát triển mụn cóc sinh dục, gây biến dạng bộ phận sinh dục, làm giảm sức hấp dẫn tình dục của người trong cuộc.
• Riêng đối với đàn ông nếu bị viêm nhiễm HPV có thể phát triển ung thư dương vật, phải phẫu thuật cắt bỏ dương vật, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng cuộc sống tình dục.
• Kể cả đàn ông lẫn phụ nữ đều có thể bị nhiễm HPV cổ họng hoặc ung thư vòm miệng, buộc phải phẫu thuật, chiếu xạ và hóa trị liệu, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng như khô miệng, giảm vị giác, rụng răng... Đây là hậu quả của việc sinh hoạt tình dục bằng đường miệng.
7 học sinh tủ nạn
học sinh tử nạn: Đội bảo vệ chậm trễ, ca nô cứu hộ hết xăng?
(Dân trí) - Một người bán hàng rong kể, thời điểm xảy ra tai nạn có rất nhiều người hô hoán nhưng một lúc sau đội bảo vệ, cứu hộ mới kéo được ca nô ra bờ biển. Đang kéo thì xe kéo ca nô bị gãy bánh, lúc nổ máy thì ca nô lại hết xăng...
Nỗi đau không thể bù đắp của gia đình các nạn nhân
Cái chết thương tâm của 7 em học sinh Trường THCS Nguyễn Bỉnh Khiêm khiến dư luận bàng hoàng và để lại nỗi đau không gì có thể bù đắp cho gia đình các nạn nhân. Có rất điều cần được làm rõ từ chuyến di lịch định mệnh này. Trong ngày 30/12, PV Dân trí đã tiếp xúc với người nhà của 5/7 em học sinh tử nạn khi tắm biển tại bãi biển 30/4 huyện Cần Giờ (TPHCM), hầu hết mọi người đều xác định đây là sự cố ngoài ý muốn nhưng vẫn mong cơ quan chức năng sớm làm rõ nguyên nhân dẫn đến cái chết thương tâm của 7 học s
Thàng tôm sú
Thắng tôm thẻ, đừng chê tôm sú
Năm qua là một năm đại thắng lợi của con tôm thẻ chân trắng. Trên đà đó, tôm thẻ tiếp tục được phát triển mạnh ở ĐBSCL và đang tiếp tục át vía tôm sú, kể cả ở những nơi chưa cho phép nuôi loại tôm này. Tuy nhiên, nhiều ý kiến vẫn cho rằng không thể bỏ tôm sú bởi nó vẫn có giá trị lớn.
Quảng canh cũng nuôi tôm thẻ
Thu hoạch tôm ở Sóc Trăng
Diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng ở Việt Nam có thể nói là đang tăng lên từng ngày. Năm 2012, nếu như diện tích tôm thẻ chân trắng mới là 42 ngàn ha. Sang năm 2013 đã tăng lên 66 ngàn ha.
Tuy diện tích này hãy còn khiêm tốn so với diện tích nuôi tôm sú, nhưng nhờ năng suất cao hơn nhiều, nên sản lượng tôm thẻ chân trắng trong năm qua đã vượt qua tôm sú. Cụ thể, sản lượng tôm thẻ chân trắng là 280 ngàn tấn, trong khi tôm sú là 268 ngàn tấn.
Chất lượng con giống cao hơn, thời gian nuôi ngắn hơn, năng suất tốt hơn nhiều…, đó là những điểm quyết định để tôm thẻ chân trắng lấn át tôm sú. Ông Võ Quang Huy, Phó chủ tịch Hiệp hội tôm Mỹ Thanh (Sóc Trăng), khẳng định: “Con tôm thẻ chân trắng do đã được gia hóa nên kiểm soát được dịch bệnh tốt hơn tôm sú. Nuôi tôm thẻ chân trắng chỉ 55 ngày là đã bắt đầu có lãi khi tôm đạt kích cỡ 120 con/kg, còn tôm sú phải 3 tháng mới bắt đầu có lãi”.
Thu hoạch tôm ở Sóc Trăng
Ông Lê Văn Quang, TGĐ Tập đoàn Minh Phú, cho biết, sở dĩ con tôm thẻ chân trắng có thể lấn át con tôm sú không chỉ ở Việt Nam mà cả trên toàn cầu, là nhờ con tôm này đã được trải qua một quá trình chọn tạo giống một cách bài bản trong nhiều năm qua. Hồi những năm 90 của thế kỷ trước, con tôm thẻ chân trắng chỉ lớn bằng con tôm đất, nên chưa được các nước nuôi thành sản phẩm xuất khẩu.
Khi ấy, Chính phủ Mỹ đã đầu tư khoa học công nghệ vào khâu chọn tạo giống cho con tôm thẻ chân trắng. Qua một quá trình chọn tạo công phu, đến nay, tôm thẻ chân trắng đã có những dòng đạt kích cỡ tới 13/15 hay thậm chí 8/12, tức là không thua kém gì so với tôm sú.
Một điều rất đáng lưu ý là không chỉ chiếm lĩnh các vùng nuôi công nghiệp, bán thâm canh, tôm thẻ chân trắng đã bắt đầu xâm nhập mạnh mẽ vào những nơi vốn được coi là chỉ nên nuôi tôm sú, đó là khu vực nuôi quảnh canh. Trước đây, dù bị con tôm thẻ chân trắng tấn công mãnh liệt, nhưng quảng canh vẫn được coi là địa hạt riêng của con tôm sú. Tuy nhiên, điều này đã bắt đầu bị phá vỡ.
Ông Trần Thiện Hải, Chủ tịch VASEP, cho hay, hiện nay, ở bán đảo Cà Mau, tại những vùng nuôi quảng canh, thay vì thả nuôi tôm sú như bao năm qua, giờ đây, nông dân đã thả nuôi tôm thẻ trên 70% diện tích. Tôm thẻ ở đây cũng được nuôi theo kiểu quảng canh, tức là không cho ăn thức ăn công nghiệp mà tự tìm kiếm nguồn thức ăn từ tự nhiên.
Ông Lê Văn Quang, cho biết rõ thêm rằng gần đây, bộ phận thu mua tôm nguyên liệu của Tập đoàn Minh Phú đã đem về những lô tôm thẻ nguyên liệu có kích cỡ lớn 18-20 con/kg, mua được từ những người nông dân thả nuôi trong khu vực quảng canh. Số lượng mua mỗi ngày không nhỏ, từ 5-7 tấn. Điều này đủ để thấy rằng nông dân đã tự thả nuôi tôm thẻ chân trắng trong vùng quảng canh với diện tích lớn như thế nào.
Phải giữ tôm sú
Theo ông Phạm Anh Tuấn, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thủy sản, Bộ NN-PTNT chủ trương tiếp tục phát triển diện tích nuôi tôm thẻ chân trắng, nhưng sẽ không bỏ tôm sú, đặc biệt là ở các hệ thống nuôi quảng canh, quảng canh cải tiến tại bán đảo Cà Mau. Việt Nam không bỏ con tôm sú, bởi nước ta là một trong số những nước ít ỏi vẫn còn nuôi con tôm này, nên vẫn có thị trường xuất khẩu cho nó.
Mặt khác, tại các hệ thống nuôi quảng canh như tôm – lúa, tôm trong rừng ngập mặn…, chưa có những đánh giá đầy đủ trong việc đưa con tôm thẻ chân trắng vào nuôi ở đấy, nên vẫn phải sử dụng tôm sú. Ông Trần Thiện Hải cũng cho rằng cần phải có cả tôm thẻ chân trắng lẫn tôm sú để doanh nghiệp dễ bán hàng hơn.
Ông Lê Văn Quang, chia sẻ, trên thế giới, các nước đã chuyển sang nuôi tôm thẻ chân trắng gần hết. Tôm sú chỉ còn được nuôi ở Kolkata (Ấn Độ) và ở Việt Nam. Tuy nhiên, trên thị trường tôm thế giới, tôm sú vẫn có thị trường rất tốt. Khoảng 20% người tiêu dùng tôm trên thế giới vẫn muốn ăn tôm sú, cho dù giá cao hơn so với tôm thẻ chân trắng.
Sở dĩ có điều này là vì hương vị của con tôm thẻ chân trắng vẫn chưa thể sánh được với tôm sú. Vì thế, vào thời điểm này, giá tôm sú thành phẩm vẫn đang cao
internet công cộng
NỘI DUNG HOẠT ĐỘNG DỰ ÁN
Điểm truy cập Internet công cộng tại tỉnh Đắk Nông
Đến nay, sau hơn một năm triển khai, được sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi của UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Thông tin và Truyền thông,Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các đơn vị tiếp nhận và đơn vị có liên quan đã tiến hành lắp đặt thiết bị và đưa vào sử dụng tại Thư viện tỉnh, 07 thư viện huyện, 10 thư viện cấp xã và 24 điểm bưu điện văn hóa xã với tổng số 280 máy tính có kết nối mạng, 42 máy in và các thiết bị ngoại vi.
Sau hơn một năm triển khai Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” đã đem lại hiệu quả thiết thực, giúp cho người dân ở khu vực nông thôn và vùng khó khăn có cơ hội tiếp cận, khai thác thông tin, tìm hiểu pháp luật, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp khoảng cách thụ hưởng do công nghệ thông tin và truy cập Internet mang lại giữa người dân thành thị và nông thôn trên địa bàn tỉnh. Tính đến hết tháng 9/2013, theo số liệu thống kê của Thư viện tỉnh và Bưu điện tỉnh tổng số lượt người truy cập là 35.735 lượt người truy cập. Mặt khác, trong điều kiện một tỉnh còn khó khăn, nguồn ngân sách còn hạn hẹp nhưng UBND tỉnh đã quan tâm ban hành Quy định mức chi nguồn kinh phí để duy trì hoạt động nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet cộng công trên địa bàn tỉnh nhằm hỗ trợ thêm thù lao cho nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã.
Theo đó Quy định của UBND tỉnh về chi trả kinh phí để duy trì hoạt động Dự án nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng trên địa bàn tỉnh bắt đầu áp dụng từ tháng 9/2013, đối với nhân viên phụ trách điểm Bưu điện văn hóa xã (24 Bưu điện): 400.000đồng/người/tháng (ngoài mức trợ cấp hàng tháng 650.000/người do Bưu điện tỉnh chi trả); Đối với nhân viên Thư viện xã kiêm nhiệm: 350.000đ/người/tháng, đối với nhân viên Thư viện xã chưa được hưởng phụ cấp: 1.100.000đồng/người/tháng. Thời gian thực hiện từ ngày 01/9/2013 đến hết năm 2017 (thời gian hết hiệu lực của Dự án Bill and Melinda Gates tài trợ).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu của việc triển khai Dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Đăk Nông trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại hạn chế như: Một số Thư viện xã nằm trong trụ sở UBND xã nên chưa thuận lợi cho người dân đến khai thác, sử dụng dịch vụ, truy cập Internet; một số đơn vị triển khai đường truyền không ổn định, ảnh hưởng đến việc sử dụng, truy cập Internet; mức thu nhập của nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã còn thấp…
Để nâng cao hiệu quả của Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” góp phần cải thiện đời sống của người dân, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn cần có những giải pháp sau: cần có chính sách khuyến khích nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã làm ngoài giờ để thuận lợi cho người dân đến khai các dịch vụ, truy cập Internet; tăng cường công tác tuyên truyền thu hút người dân trên địa bàn sử dụng dịch vụ Internet ở Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin cho nhân viên ở Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã; các cơ quan chủ quản cần thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để Dự án triển khai mang lại lợi ích thiết thực nhất; cần có giải pháp lâu dài sau khi Dự án kết thúc để duy trì, xây dựng Thư viện, Bưu điện văn hóa xã thành trung tâm học tập cộng đồng, góp phần xây dựng nông thôn mới, hướng đến xây dựng thành công “chính quyền điện tử”, “chính phủ điện tử” tại Đắk Nông nói riêng, trong cả nước nói chung.
Đức Lộc (Sở TTTT)
Kết quả bước đầu triển khai Dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng trên địa bàn tỉnh Đăk Nông
Ngày cập nhật: 27/11/2013 Đến nay, sau hơn một năm triển khai, được sự quan tâm tạo điều kiện thuận lợi của UBND tỉnh, sự phối hợp chặt chẽ giữa Sở Thông tin và Truyền thông,Sở Văn hóa - Thể thao và Du lịch, các đơn vị tiếp nhận và đơn vị có liên quan đã tiến hành lắp đặt thiết bị và đưa vào sử dụng tại Thư viện tỉnh, 07 thư viện huyện, 10 thư viện cấp xã và 24 điểm bưu điện văn hóa xã với tổng số 280 máy tính có kết nối mạng, 42 máy in và các thiết bị ngoại vi.
Sau hơn một năm triển khai Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy cập Internet công cộng tại Việt Nam” đã đem lại hiệu quả thiết thực, giúp cho người dân ở khu vực nông thôn và vùng khó khăn có cơ hội tiếp cận, khai thác thông tin, tìm hiểu pháp luật, áp dụng các thành tựu khoa học - kỹ thuật để tăng năng suất cây trồng, vật nuôi, góp phần cải thiện đời sống, xóa đói giảm nghèo. Thu hẹp khoảng cách thụ hưởng do công nghệ thông tin và truy cập Internet mang lại giữa người dân thành thị và nông thôn trên địa bàn tỉnh. Tính đến hết tháng 9/2013, theo số liệu thống kê của Thư viện tỉnh và Bưu điện tỉnh tổng số lượt người truy cập là 35.735 lượt người truy cập. Mặt khác, trong điều kiện một tỉnh còn khó khăn, nguồn ngân sách còn hạn hẹp nhưng UBND tỉnh đã quan tâm ban hành Quy định mức chi nguồn kinh phí để duy trì hoạt động nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet cộng công trên địa bàn tỉnh nhằm hỗ trợ thêm thù lao cho nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã.
Theo đó Quy định của UBND tỉnh về chi trả kinh phí để duy trì hoạt động Dự án nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng trên địa bàn tỉnh bắt đầu áp dụng từ tháng 9/2013, đối với nhân viên phụ trách điểm Bưu điện văn hóa xã (24 Bưu điện): 400.000đồng/người/tháng (ngoài mức trợ cấp hàng tháng 650.000/người do Bưu điện tỉnh chi trả); Đối với nhân viên Thư viện xã kiêm nhiệm: 350.000đ/người/tháng, đối với nhân viên Thư viện xã chưa được hưởng phụ cấp: 1.100.000đồng/người/tháng. Thời gian thực hiện từ ngày 01/9/2013 đến hết năm 2017 (thời gian hết hiệu lực của Dự án Bill and Melinda Gates tài trợ).
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả bước đầu của việc triển khai Dự án Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Đăk Nông trong thời gian qua vẫn còn những tồn tại hạn chế như: Một số Thư viện xã nằm trong trụ sở UBND xã nên chưa thuận lợi cho người dân đến khai thác, sử dụng dịch vụ, truy cập Internet; một số đơn vị triển khai đường truyền không ổn định, ảnh hưởng đến việc sử dụng, truy cập Internet; mức thu nhập của nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã còn thấp…
Để nâng cao hiệu quả của Dự án “Nâng cao khả năng sử dụng máy tính và truy nhập Internet công cộng tại Việt Nam” góp phần cải thiện đời sống của người dân, xóa đói giảm nghèo, nâng cao dân trí và thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn cần có những giải pháp sau: cần có chính sách khuyến khích nhân viên Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã làm ngoài giờ để thuận lợi cho người dân đến khai các dịch vụ, truy cập Internet; tăng cường công tác tuyên truyền thu hút người dân trên địa bàn sử dụng dịch vụ Internet ở Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã; tăng cường công tác đào tạo, tập huấn ứng dụng công nghệ thông tin cho nhân viên ở Bưu điện văn hóa xã và Thư viện xã; các cơ quan chủ quản cần thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, giám sát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc để Dự án triển khai mang lại lợi ích thiết thực nhất; cần có giải pháp lâu dài sau khi Dự án kết thúc để duy trì, xây dựng Thư viện, Bưu điện văn hóa xã thành trung tâm học tập cộng đồng, góp phần xây dựng nông thôn mới, hướng đến xây dựng thành công “chính quyền điện tử”, “chính phủ điện tử” tại Đắk Nông nói riêng, trong cả nước nói chung.
Đức Lộc (Sở TTTT)
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)